Ung thư trực tràng là gì? Các công bố khoa học về Ung thư trực tràng
Ung thư trực tràng (hay ung thư đại trực tràng) là một loại ung thư phát triển trong các tế bào của ruột già, thuộc phần trung đại của ruột già gọi là trực tràn...
Ung thư trực tràng (hay ung thư đại trực tràng) là một loại ung thư phát triển trong các tế bào của ruột già, thuộc phần trung đại của ruột già gọi là trực tràng. Ung thư trực tràng thường xuất hiện từ các khối u sẹo, biến chứng của viêm đại tràng mãn tính hoặc polyp đại tràng. Ung thư trực tràng là một trong những loại ung thư phổ biến nhất trên thế giới, đặc biệt ở từ gia đình chưa bệnh, tiêu chuẩn thuốc trục trắc trục dịch hơn so với các nước phát triển. Các triệu chứng của ung thư trực tràng có thể bao gồm: thay đổi về chuyển đại (táo bón hoặc tiêu chảy), đau bụng, mệt mỏi, mất cân nhắc, khối u trong vùng hậu môn, máu trong phân hoặc trên giấy vệ sinh sau khi đi tiểu. Để chẩn đoán, thường cần phải tiến hành các xét nghiệm như nội soi, chụp X-quang, siêu âm và các xét nghiệm hóa sinh. Phương pháp điều trị thường bao gồm phẫu thuật, chiếu xạ, hóa trị và liệu pháp tiếp xúc trực tiếp, phụ thuộc vào giai đoạn và tiến triển của bệnh.
Ung thư trực tràng bắt đầu từ các tế bào của niêm mạc trực tràng - một lớp mô bên trong của thành ruột lớn, có chức năng hấp thụ chất dinh dưỡng và nước từ thức ăn. Quá trình phát triển của ung thư trực tràng diễn ra qua các giai đoạn khác nhau.
Giai đoạn sớm: Ban đầu, ung thư trực tràng có thể phát triển thành các polyp - các khối u nhỏ trên bề mặt của niêm mạc. Với thời gian, một số polyp có thể biến thành ung thư nếu không được điều trị kịp thời. Tuy nhiên, không phải tất cả các polyp đều trở thành ung thư mà có thể được loại bỏ bằng phẫu thuật.
Giai đoạn tiến triển: Nếu không phát hiện và điều trị kịp thời, tế bào ung thư có thể lan ra các lớp mô sâu hơn trong thành ruột và có thể xâm lấn vào các mạch máu và bạch huyết, lan đến các cơ quan và mô xung quanh trực tràng. Các tế bào ung thư cũng có thể lan sang các dạng ung thư khác trong cơ thể, gọi là ung thư giai đoạn cuối.
Triệu chứng của ung thư trực tràng thường không rõ ràng và có thể được nhầm là các vấn đề hỗ trợ khác, nhưng có thể bao gồm:
1. Thay đổi chuyển đại: Bị táo bón hoặc tiêu chảy liên tục hoặc thay đổi giữa hai tình trạng này.
2. Đau bụng: Đau hoặc khó chịu trong vùng bụng dưới.
3. Mệt mỏi, mất cân nặng, và suy giảm sức khỏe: Các triệu chứng không đặc trưng cho ung thư trực tràng, nhưng những thay đổi này có thể xuất hiện khi bệnh đã tiến triển thành giai đoạn tiến triển.
4. Khối u trong vùng hậu môn: Có thể cảm nhận được một khối u hoặc cảm giác tồn tại vật ngoại trong vùng hậu môn khi đến toilet.
5. Máu trong phân hoặc trên giấy vệ sinh sau khi đi tiểu: Máu có thể xuất hiện trong phân dạng máu tươi hoặc phân màu đen nhờ máu đã tiếp xúc với các enzym tiêu hóa.
Việc chẩn đoán ung thư trực tràng thường bao gồm các phương pháp như:
1. Nội soi đại tràng: Một ống mỏng và dẹp được gắn máy quay được đưa vào qua hậu môn và trực tràng để kiểm tra các bất thường và lấy mẫu tế bào.
2. Chụp X-quang: Một loạt các hình ảnh X-quang được chụp sau khi tiêm barium vào ruột để tạo ra hình ảnh rõ ràng về trực tràng.
3. Siêu âm: Sử dụng sóng siêu âm để tạo ra hình ảnh về trực tràng và các cơ quan xung quanh.
4. Xét nghiệm hóa sinh: Kiểm tra mẫu máu để đánh giá chức năng gan, thận và thể trạng tổng quát của bệnh nhân.
Các phương pháp điều trị ung thư trực tràng bao gồm:
1. Phẫu thuật: Thường là phương pháp chính để loại bỏ khối u và các phần trực tràng bị ảnh hưởng. Có thể là phẫu thuật thông qua cắt bỏ một phần trực tràng (resection) hoặc loại bỏ toàn bộ trực tràng (colostomy).
2. Chiếu xạ: Sử dụng các tia X hoặc các nguồn năng lượng cao khác để tiêu diệt tế bào ung thư hoặc kiềm chế sự phát triển của chúng.
3. Hóa trị: Sử dụng các loại thuốc độc hại nhằm tiêu diệt tế bào ung thư hoặc ngăn chặn sự phát triển của chúng.
4. Liệu pháp tiếp xúc trực tiếp: Sử dụng các chất chuyên dụng để tiếp xúc trực tiếp với khối u, như chất tạo nguyên hay thuốc chemoembolization.
Thời gian sống và dự đoán của bệnh nhân ung thư trực tràng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm giai đoạn của bệnh khi được chẩn đoán, phương pháp điều trị và sự phát triển của bệnh. Việc phát hiện và điều trị sớm có thể tăng khả năng sống sót và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư trực tràng":
Curcumin là sắc tố màu vàng chủ yếu được chiết xuất từ nghệ, một loại gia vị phổ biến ở Ấn Độ và Đông Nam Á có tiềm năng ngăn ngừa và chống ung thư rộng. Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu hệ thống về dược lý và độc học của curcumin ở người đã được thực hiện.
Một nghiên cứu tăng liều đã được thực hiện để xác định liều dung nạp tối đa và mức độ an toàn của một liều duy nhất từ chiết xuất bột tiêu chuẩn, curcumin được nghiền đồng nhất (
Bảy trong số hai mươi bốn đối tượng (30%) chỉ gặp phải độc tính tối thiểu, không có vẻ liên quan đến liều lượng. Không tìm thấy curcumin trong huyết thanh của những đối tượng dùng 500, 1,000, 2,000, 4,000, 6,000 hoặc 8,000 mg. Mức độ curcumin thấp được phát hiện ở hai đối tượng dùng 10,000 hoặc 12,000 mg.
Khả năng dung nạp của curcumin ở liều uống đơn cao là rất tốt. Xét rằng việc đạt được sinh khả dụng toàn thân của curcumin hoặc các chất chuyển hóa của nó có thể không cần thiết cho việc phòng ngừa ung thư đại trực tràng, những phát hiện này đáng được điều tra thêm về công dụng như một tác nhân phòng ngừa ung thư trường kỳ.
MỤC ĐÍCH: So sánh tỷ lệ đáp ứng, các chỉ số hiệu quả và hồ sơ độc tính của capecitabine dạng uống với fluorouracil cộng leucovorin (5-FU/LV) tiêm tĩnh mạch nhanh như là phương pháp điều trị đầu tiên ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng di căn.
BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP: Chúng tôi tiến hành ngẫu nhiên hóa 605 bệnh nhân để điều trị bằng capecitabine dạng uống trong 14 ngày mỗi 3 tuần hoặc bằng 5-FU/LV tiêm nhanh hàng ngày trong 5 ngày theo chu kỳ 4 tuần.
KẾT QUẢ: Tỷ lệ đáp ứng khối u khách quan tổng thể của tất cả bệnh nhân được ngẫu nhiên hóa trong nhóm capecitabine (24,8%) cao hơn đáng kể so với nhóm 5-FU/LV (15,5%; P = .005). Trong nhóm capecitabine và 5-FU/LV, thời gian trung vị để bệnh tiến triển là 4,3 tháng và 4,7 tháng (log-rank P = .72), thời gian trung vị thất bại điều trị là 4,1 tháng và 3,1 tháng (P = .19), và thời gian sống thêm trung vị là 12,5 tháng và 13,3 tháng (P = .974), tương ứng. Capecitabine, so với điều trị bolus 5-FU/LV, tạo ra tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy, viêm niêm mạc miệng, buồn nôn và rụng tóc thấp hơn rõ rệt (P < .0002). Bệnh nhân điều trị bằng capecitabine cũng thể hiện tỷ lệ mắc viêm niêm mạc miệng cấp 3/4 và giảm bạch cầu hạt cấp 3/4 thấp hơn (P < .0001) dẫn đến sốt bạch cầu hạt/ nhiễm khuẩn thấp hơn đáng kể. Hội chứng tay chân cấp 3 (P < .00001) và tăng bilirubin cấp 3/4 là những độc tính duy nhất liên quan đến capecitabine thường xuyên hơn so với điều trị 5-FU/LV.
KẾT LUẬN: Capecitabine dạng uống có hiệu quả cao hơn so với 5-FU/LV trong việc khởi phát đáp ứng khối u khách quan. Thời gian bệnh tiến triển và sống còn ít nhất cũng tương đương giữa capecitabine với nhóm 5-FU/LV. Capecitabine cũng cho thấy những lợi ích lâm sàng đáng kể về khả năng dung nạp so với bolus 5-FU/LV.
Các khối u thoát khỏi sự từ chối miễn dịch thông qua nhiều cơ chế đa dạng. Trong báo cáo này, chúng tôi trình bày rằng tế bào ung thư đại trực tràng SW620 biểu hiện Fas ligand (FasL) chức năng, tác nhân kích hoạt dẫn tới apoptosis thông qua thụ thể Fas (FasR) trong hệ miễn dịch. mRNA FasL và FasL trên bề mặt tế bào đã được phát hiện trong các tế bào SW620 bằng cách sử dụng phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR) và nhuộm miễn dịch mô học. Chúng tôi cho thấy rằng SW620 tiêu diệt các tế bào T Jurkat theo cơ chế phụ thuộc vào Fas. Việc điều trị bằng oligonucleotide đối kháng đặc hiệu với FasR, tạm thời ức chế biểu hiện FasR, đã bảo vệ hoàn toàn các tế bào Jurkat khỏi sự tiêu diệt bởi SW620. Điều trị bằng oligonucleotide đối kháng đặc hiệu với FasL trên SW620 cũng đã ức chế hoạt tính tiêu diệt Jurkat của nó. Gần đây, FasL đã được xác định là một yếu tố trung gian cho đặc quyền miễn dịch ở võng mạc chuột và tinh hoàn. Phát hiện của chúng tôi rằng các tế bào ung thư đại trực tràng biểu hiện FasL chức năng cho thấy nó có thể đóng vai trò tương tự trong việc cấp đặc quyền miễn dịch cho các khối u ở người. Các tế bào ung thư đại trực tràng HT29 và SW620 được tìm thấy biểu hiện mRNA FasR và FasR trên bề mặt tế bào bằng cách sử dụng RT-PCR và phân tích dòng chảy miễn dịch huỳnh quang, tương ứng. Tuy nhiên, cả hai loại tế bào này đều không trải qua apoptosis sau khi điều trị bằng kháng thể đơn dòng chống FasR kích thích CH11. Do đó, kết quả của chúng tôi gợi ý mô hình phản công Fas trong việc trốn tránh miễn dịch ở ung thư đại trực tràng, trong đó các tế bào ung thư kháng lại tính độc tế bào T phụ thuộc vào Fas nhưng vẫn biểu hiện FasL chức năng, một tín hiệu chết tế bào mà tế bào T hoạt hóa đặc biệt nhạy cảm.
Tổng quan một cách có hệ thống tài liệu đã công bố để xác định các can thiệp nhằm cải thiện sức khỏe của các nhóm dân tộc thiểu số liên quan đến chăm sóc ung thư đại trực tràng.
Các cơ sở dữ liệu MEDLINE, PsycINFO, CINAHL và Cochrane, từ năm 1950 đến 2010.
Can thiệp trên các quần thể Hoa Kỳ có đủ điều kiện để tầm soát ung thư đại trực tràng, và bao gồm ≥50% là các nhóm dân tộc/thiểu số (hoặc có phân tích phụ cụ thể theo sắc tộc/dân tộc). Tất cả các nghiên cứu được bao gồm đều liên quan đến một nguồn chăm sóc sức khỏe xác định. Ba tác giả đã độc lập xem xét các tóm tắt của tất cả các bài báo và danh sách cuối cùng được xác định bằng đồng thuận. Tất cả các bài báo được xem xét độc lập và điểm đánh giá chất lượng được tính toán và gán bằng danh sách kiểm tra Downs và Black.
Ba mươi ba nghiên cứu được bao gồm trong phân tích cuối cùng của chúng tôi. Giáo dục bệnh nhân qua điện thoại hoặc trực tiếp kết hợp với dịch vụ dẫn dắt có thể dẫn đến cải thiện mức độ tầm soát ung thư đại trực tràng một cách khiêm nhường, khoảng 15 điểm phần trăm, trong các nhóm dân tộc thiểu số. Các can thiệp đa chiều nhắm vào bác sĩ bao gồm các buổi giáo dục và nhắc nhở, cũng như các can thiệp giáo dục thuần túy, được chứng minh là hiệu quả trong việc nâng cao tỷ lệ tầm soát ung thư đại trực tràng, cũng trong khoảng 10 đến 15 điểm phần trăm. Không có can thiệp nào liên quan đến theo dõi sau tầm soát, điều trị tuân thủ và sống sót được xác định.
Đánh giá này loại trừ bất kỳ nghiên cứu can thiệp nào không được gắn với một nguồn chăm sóc sức khỏe xác định. Các nhóm dân tộc thiểu số trong hầu hết các nghiên cứu được xem xét chủ yếu là người gốc Tây Ban Nha và người Mỹ gốc Phi, làm hạn chế khả năng khái quát hóa với các nhóm dân tộc và thiểu số khác.
Giáo dục bệnh nhân được điều chỉnh kết hợp với dịch vụ dẫn dắt bệnh nhân và đào tạo bác sĩ trong việc giao tiếp với bệnh nhân có trình độ hiểu biết y tế thấp có thể cải thiện khiêm nhường việc tuân thủ tầm soát ung thư đại trực tràng. Trách nhiệm hiện tại là thuộc về các nhà nghiên cứu để tiếp tục đánh giá và tinh chỉnh các can thiệp này và bắt đầu mở rộng chúng ra toàn bộ quy trình chăm sóc ung thư đại trực tràng.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10